KINH TẾ VĨ MÔ CHO NỀN KINH TẾ MỞ
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành một trong những xu thế phát triển chủ yếu
của các quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Những tiến bộ nhanh chóng về khoa học kỹ
thuật cùng với vai trò ngày càng tăng của các công ty đa quốc gia đã thúc đẩy mạnh
mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác giữa các quốc gia, làm cho lực lượng sản
xuất được quốc tế hoá cao độ. Tất cả các nước trên thế giới đều điều chỉnh chính sách
theo hướng mở cửa: giảm dần và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan,
làm cho việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển các yếu tố sản xuất như vốn, lao động và
kỹ thuật trên thế giới ngày càng thông thoáng hơn. Để không bị gạt ra ngoài lề của sự
phát triển, các quốc gia đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung đó và tăng cường
sức cạnh tranh kinh tế. Trong bối cảnh đó, việc quản lý nền kinh tế của một nước
không thể được quyết định một cách biệt lập và các mô hình kinh tế vĩ mô chỉ thực sự
có ý nghĩa để mô tả các nền kinh tế thực và cung cấp cơ sở cho việc hoạch định và
đánh giá tác động của các chính sách kinh tế một khi có tính đến các khía cạnh quốc
tế của một nền kinh tế. Điều này hàm ý nền kinh tế cần được xem xét với tư cách là
nền kinh tế mở, tức nền kinh tế có tương tác với các nền kinh tế khác trên thế giới.
Mục đích chính của chương này là giới thiệu những khái niệm then chốt mà các nhà
kinh tế thường sử dụng để mô tả một nền kinh tế mở. Chúng ta sẽ đặc biệt nhấn mạnh
đến tỷ giá hối đoái, một công cụ then chốt mà chính phủ có thể sử dụng để tác động
đến hoạt động thương mại với thế giới bên ngoài và nhiều biến số kinh tế vĩ mô quan
trọng khác của các nền kinh tế hiện đại.
I. Cán cân thanh toán
Phần này giới thiệu tổng quan về cán cân thanh toán quốc tế, một chỉ tiêu kinh tế quan
trọng đối với các nhà hoạch định chính sách trong một nền kinh tế mở. Trạng thái của cán
cân thanh toán có ảnh hưởng quan trọng đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái. Trong nhiều
trường hợp, chính phủ buộc phải điều chỉnh các chính sách kinh tế để đối phó với những
mất cân bằng trong cán cân thanh toán đang đe dọa sự ổn định và phát triển của nền
kinh tế.
Cán cân thanh toán là một bảng cân đối ghi chép một cách hệ thống toàn bộ những
giao dịch kinh tế giữa trong nước với thế giới bên ngoài trong một khoảng thời gian
nhất định (thường là một năm). Nó phản ánh giá trị hàng hoá và dịch vụ mà nền kinh
tế đã xuất khẩu và nhập khẩu cũng như các khoản tiền mà quốc gia đã đi vay hoặc cho
thế giới bên ngoài vay. Ngoài ra, sự can thiệp của ngân hàng trung ương vào thị
trường ngoại hối thông qua việc thay đổi dự trữ ngoại tệ cũng được phản ánh trong
cán cân thanh toán.
Cán cân thanh toán được ghi chép dưới dạng một tài khoản. Các giao dịch mang lại ngoại tệ
cho đất nước như xuất khẩu hay bán tài sản cho người nước ngoài được ghi là khoản mục
có (mang dấu +). Ngược lại, các giao dịch dẫn đến việc thanh toán ngoại tệ cho thế giới bên
ngoài như nhập khẩu hàng hoá hay mua các tài sản ngoại được ghi là khoản mục nợ (mang
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 16 – Kinh tế vĩ mô cho nền kinh tế mở 2
dấu -).
Các tài khoản của cán cân thanh toán
Cán cân thanh toán bao gồm hai tài khoản chủ yếu: tài khoản vãng lai và tài khoản
vốn.
Tài khoản vãng lai
Tài khoản vãng lai ghi chép các giao dịch về hàng hoá, dịch vụ, thu nhập và chuyển
giao vãng lai. Tài khoản vãng lai bao gồm ba khoản mục lớn: tài khoản thương mại,
thu nhập nhân tố từ nước ngoài và chuyển giao vãng lai.
Thứ nhất, tài khoản thương mại ghi chép thu nhập và thanh toán liên quan đến các
giao dịch thương mại quốc tế.
Như đã giới thiệu trong Chương 6, xuất khẩu là những hàng hoá và dịch vụ sản
xuất trong nước được bán ra nước ngoài, còn nhập khẩu là hàng hoá và dịch vụ sản
xuất ở nước ngoài được bán ở trong nước. Xuất khẩu mang lại ngoại tệ cho đất nước
và do đó được ghi là khoản mục có, còn nhập khẩu đòi hỏi phải chi ngoại tệ ra nước
ngoài và do đó được khi là khoản mục nợ. Khi Tổng công ty lương thực miền Nam
bán gạo cho Xingapo, thì gạo là xuất khẩu của Việt Nam và nhập khẩu của
Xingapo. Khi Boing, nhà sản xuất máy bay của Mỹ, chế tạo và bán 3 chiếc máy
bay Boing 777 cho Tổng Công ty hàng không Việt Nam, thì số máy bay này là